Trong giới danh gia vọng tộc ở vùng đất Thừa Thiên Huế thời Nguyễn, có mấy nhà quý hiển, thành đạt sánh được với gia đình Khánh Mỹ Quận công.
Chồng vợ nay đà đặng tám mươi
Mười con, bốn gái sáu con trai
Trai đầu khoa bảng quan nhì phẩm
Gái thứ cung phi đệ nhứt giai
Ba gái gả nơi sang quý cả
Năm trai đều đậu đại khoa rồi
Một nhà hiếu đạo gồm đầy đủ
Trung phần đây, đố biết nhà ai?
Việc đời như bức tranh vân cẩu, lịch sử sang trang, ngày nay nhìn lại phủ đệ điêu tàn, vàng phai đá nát, hiếm còn người nhớ chuyện công hầu khanh tướng ngày xưa…
May thay trong vườn thiền, hương công đức của sư bà Diệu Không mãi lan tỏa. Bà có thế danh là Hồ Thị Hạnh, con gái của Quận công Hồ Đắc Trung và bà Nhất phẩm phu nhân Châu Thị Ngọc Lương. Thuở thơ ấu, bà được yêu quý như kỳ trân, bửu ngọc trong nếp nhà vinh hiển, phú quý tột đỉnh ở kinh đô Huế những thập niên đầu thế kỷ XX. Đến tuổi cài trâm, ngoài cửa son dập dìu xe ngựa của vương tôn công tử mong ước cầu thân:
Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ (1)
Khách công hầu ngấp nghé mong sao.
(Nguyễn Gia Thiều)
Lạ lùng thay, không người nào lọt vào được mắt xanh của “thiên kim tiểu thơ”, lúc này đang là nữ sinh Trường Đồng Khánh, lại có khuynh hướng theo gương Nữ sử Đạm Phương hoạt động yêu nước, nâng cao nữ quyền trong xã hội…
Năm 1929, để giữ tròn đạo hiếu với song thân và thương xót sáu đứa con thơ đang mồ côi mẹ, tiểu thư họ Hồ đã bằng lòng thuận theo lời cầu hôn của ông Tham tá Cơ mật viện Cao Xuân Xang, thứ nam của cụ An Xuân Tử Cao Xuân Dục. Dư luận Huế đô xôn xao vì không ai hiểu được nhân duyên, chỉ biết chau mày than tiếc!
Bà Cao Xuân Xang (Hồ Thị Hạnh) đã ghi lại ngày vu quy của mình:
Đám cưới hay là một đám tang
Cả nhà lớn nhỏ thảy đều than
Chồng chung bịnh hoạn tình phai lạt
Vợ kế kề vai gánh đoạn tràng
Kẻ nói là ngu, người nói dại
Người cho là dở, kẻ cho gan
Biết chăng chỉ có người trong cuộc
Gạy mài thuyền từ phải quyết sang.
Duyên nợ mười một tháng, sanh hạ được một người con trai là Cao Xuân Chuân thì phu quân bà mệnh chung.
Nữ sĩ Cao Ngọc Anh (chị gái của ông Cao Xuân Xang) ghé thăm bà, cảm tác bài thơ:
Hoa đào năm ngoài khách năm nay
Phong cảnh nhìn xem khác mọi ngày
Hoa cỏ tơi bời quanh suối rụng
Yến oanh thơ thẩn cách tường bay
Lửa tình dẫu tắt lòng chưa nguội
Bể ái tuy vơi lệ vẫn đầy
Một khối Chuân thành đà phỉ nguyện
Nợ đời đã trả chớ nên vay.
Sau khi thành góa phụ, bà thu xếp việc gia đình dần dần để tập trung học hỏi Phật pháp, hoạt động từ thiện và nỗ lực tham gia ủng hộ phong trào chấn hưng Phật giáo. Nối tiếp chí nguyện của Tì-kheo-ni Diên Trường (Hồ Thị Nhàn), bà vận động xây dựng Ni viện Diệu Đức để làm nơi đào tạo ni giới Phật giáo cả nước.
Nữ sử Đạm Phương tán dương công đức của bà:
Khoác áo nhu hòa thiệt khỏe không
Hiếu tình hai chữ trả đền xong
Thờ thân nuôi trẻ hai triêng nặng
Mến đạo thương đời một điểm trong
Công quả đã tròn nền Diệu Đức
Phẩm tài chi kém bạn Phương Dung
Nêu cao đuốc tuệ cho bồ liễu
Như mảnh trăng tròn giữa biển đông.
Tuân theo ý chỉ của các vị tôn túc sơn môn, tuy thọ trì mười giới nhưng bà vẫn giữ thân tướng cư sĩ để thuận tiện việc giao thiệp, hoạt động giữa thế gian. Mãi đến năm 1944, hội đủ duyên lành, bà phát tâm xin thọ trì giới Tỳ-kheo-ni tại Giới đàn Thuyền Tôn do Đức Trưởng lão Giác Nhiên làm hòa thượng Đàn đầu. Đại sư Bích Phong (ôn Quy Thiện) vô cùng hoan hỉ tán dương hành trạng của bà qua bài thơ chữ Hán:
Tặng Diệu Không Tỳ-kheo-ni
Âm:
Hầu môn (2) vãn phóng nhất hoa chi
Diễm sắc phương tâm ức thiếu thì
Tảo yếm trần căn vong thế lợi
Vị tài đạo thọ trước điền y
Hoàn năng lạc phách tri nhân kiệt
Ninh bả tầm thường khán nữ nhi
Bách xích can đầu trùng tiến bộ3
Mạc hiềm biến dịch tiện trì trì.
Dịch:
Tặng Tỳ-kheo-ni Diệu Không
Cửa hầu muộn thoát một cành hoa,
Hương sắc từ thơ nức tiếng nhà.
Sớm chán cảnh trần buông thế lợi,
Vì mong hưng đạo khoác ca-sa.
Ngoái nhìn nhân kiệt thời điên đảo,
Chớ nhận tầm thường phận nữ a!
Đầu sào trăm thước thêm bước nữa
Trù trừ thay đổi sẽ lùi xa!
(Trần Đình Sơn dịch)
Một dịp sư bà Diệu Không vào thăm Sài Gòn, nhà thơ Tôn nữ Hỷ Khương đến vấn an, đã dâng tặng bài thơ kỷ niệm:
Chữ Thiện Chân
Hầu chuyện Sư bà một sớm mai
Chuyện xưa tích cũ muốn nghe hoài
Tâm như nhẹ thoát cơn phiền não
Hồn tựa lâng lâng chốn Phật đài
Phong cách Sư bà vẫn lạc quan
Tấm gương sáng tỏ đẹp vô vàn
Đức năng trí tuệ danh ngời rạng
Tình cảm chan hòa giữa thế gian
Hạnh phúc cho ai được dự phần
Cận kề nương tựa mái Hồng Ân
Suối nguồn vi diệu hương trầm ngát
Soi tỏ bên mình chữ: Thiện Chân.
(5/ 1/ 1987)
Bồ-tát Tỳ-kheo-ni Diệu Không đi vào đời với đại nguyện “trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh”, hiện đủ thân tướng để thực chứng chơn lý:
Vạn pháp không ngoài lý diệu không,
Không thời phải diệu mới dung thông.
Cái tâm vô trú là tâm diệu,
Diệu tại muôn phương thấy thể đồng.
Hơn hai mươi mùa thu đã trôi qua nhưng rừng Thiền nước Việt dư hương hoa đàm vẫn còn thơm ngát. Thành tâm kính lục những bài thơ xưa để người đời sau hiểu rõ thêm về hành trạng, công đức của một bậc danh Ni trong phong trào chấn hưng Phật giáo hiện đại.
Chú thích:
1. Theo Đường thư, Đậu Nghị người đất Mậu Lăng làm quan Thượng trụ quốc thời Nam – Bắc triều có người con gái yêu quý muốn kén rể, bèn sai vẽ một con công trên bức bình phong, giao ước rằng ai bắn trúng mắt công thì gã con gái cho. Lý Uyên (về sau là vua Đường Cao Tổ) bắn trúng nên lấy được vợ.
2. Chỗ ở của bậc công hầu, quyền quý.
3. “Bách xích can đầu”, nghĩa đen là trên đầu ngọn sào trăm thước lại tiến thêm một bước, dụ cho sự dũng cảm của người tham thiền vượt qua đầu sào ý thức để đi tới cảnh giới đại ngộ.
Nguồn: Phật Giáo Việt Nam
Xem thêm nội dung mới và bổ ích tại:
– Kiến thức gia đình
– Tri thức đời sống
– Cẩm nang sức khỏe
– Kênh youtube Kiến thức gia đình